Xác định rõ trọng tâm đầu tư và cơ quan chủ trì từng hợp phần cho chương trình mục tiêu quốc gia
(PNTĐ) - Chiều 3/12, tại tổ 1, các đại biểu Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội đã thảo luận về Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035.
Các đại biểu Quốc hội đoàn thành phố Hà Nội thống nhất rằng, cần hợp nhất các chương trình, khắc phục chồng chéo, xác định rõ trọng tâm đầu tư và cơ quan chủ trì từng hợp phần. Các ý kiến cũng nhấn mạnh vai trò của nguồn lực, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển hạ tầng và đặc thù vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi nhằm tạo chuyển biến thực chất, bền vững. Việc hoàn thiện cơ chế, phân cấp rõ ràng và xây dựng nguồn lực chất lượng sẽ quyết định sự thành công của chương trình trong thời gian tới.

Bày tỏ thống nhất với đánh giá của Chính phủ về kết quả và những tồn tại trong quá trình triển khai 3 Chương trình mục tiêu quốc gia thời gian qua: Xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, cùng với theo dõi, giám sát thực tiễn, đại biểu Lê Nhật Thành cho rằng còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần được nhận diện đầy đủ để tránh lặp lại trong giai đoạn tới.

Theo đại biểu, hạn chế phổ biến nhất là tình trạng chồng chéo, trùng lặp mục tiêu, nội dung, cơ chế thực hiện. Nhiều nhiệm vụ đều do cả 3 chương trình cùng triển khai như hỗ trợ hạ tầng thôn bản đặc biệt khó khăn, hỗ trợ sinh kế, đào tạo nghề, nâng cao năng lực cộng đồng hay các hỗ trợ về nhà ở, nước sạch. Điều này gây dàn trải nguồn lực và lãng phí thời gian điều phối.
Hệ thống văn bản hướng dẫn cũng là điểm nghẽn khi được ban hành nhiều nhưng chậm, chưa phù hợp thực tiễn và thay đổi liên tục, dẫn đến lúng túng, làm chậm tiến độ. Cách chia nhỏ quá nhiều hợp phần, tiểu dự án khiến nguồn lực manh mún, không tạo tác động đột phá, trong khi cấp xã phải xử lý lượng lớn hồ sơ vượt quá năng lực. Cơ chế quản lý vốn còn rườm rà, thẩm định nhiều tầng nấc, giao vốn chậm và thanh quyết toán nặng tính hành chính, làm giảm hiệu quả hỗ trợ người dân.
Đại biểu đề xuất hợp nhất 3 chương trình để giảm phân tán nguồn lực và giảm văn bản hướng dẫn. Đồng thời, cho rằng việc thiết kế chương trình với hai hợp phần là hợp lý, nhưng cần rà soát để loại bỏ những nhiệm vụ trùng với chương trình của bộ, ngành khác hoặc nhiệm vụ mang tính thường xuyên của địa phương.

Cũng thống nhất với quan điểm hợp nhất 3 chương trình vào một khung chung, coi đây là giải pháp phù hợp nhằm bảo đảm hiệu quả đầu tư, đại biểu Nguyễn Hải Trung cho rằng, dự thảo đã thể hiện khá rõ các mục tiêu, phạm vi, kinh phí, nguyên tắc phân bổ vốn Trung ương và thẩm quyền của Thủ tướng.
Đại biểu cho rằng, để “rõ người, rõ việc”, đề nghị xác định cơ quan chủ trì từng hợp phần. Cụ thể là hợp phần thứ nhất - các nội dung chung - nên giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường; hợp phần thứ hai - gồm năm nội dung đặc thù vùng dân tộc thiểu số và miền núi - nên giao Bộ Dân tộc và Tôn giáo chủ trì.
Theo đại biểu có bốn lý do: phù hợp với kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; đúng chức năng của bộ; bộ đã có kinh nghiệm qua giai đoạn 2021-2025; và hệ thống cơ quan dân tộc - tôn giáo từ Trung ương đến cơ sở đã được kiện toàn, đủ năng lực tổ chức thực hiện.
Đại biểu Nguyễn Hải Trung , thực hiện tốt chính sách vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn góp phần hỗ trợ công tác tôn giáo, ổn định an ninh và củng cố lòng dân ở nhiều địa bàn còn đan xen yếu tố phức tạp.
Cũng đánh giá cao việc sáp nhập chương trình và cho rằng đây là hướng đi đúng để tránh trùng lặp, Đại biểu Hoàng Văn Cường đề xuất 3 nội dung cần đặc biệt lưu ý. Cụ thể: Một là, trong phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, cần ưu tiên hình thành các cụm dân cư ổn định, an toàn. Thực tế nhiều năm cho thấy vùng miền núi thường chịu thiệt hại nặng khi xảy ra lũ quét, sạt lở, trong đó nguyên nhân lớn là người dân sinh sống ở khu vực có nguy cơ cao. Vì vậy, đề nghị rà soát các địa bàn rủi ro, bố trí dân cư đến nơi an toàn và đầu tư hạ tầng đồng bộ tại các cụm dân cư mới. Chỉ khi đó, đời sống người dân miền núi mới thực sự được bảo đảm lâu dài.
Đại biểu lưu ý nội dung xây dựng trường mầm non, mẫu giáo tại vùng miền núi, nên có chỉ tiêu rõ ràng hơn về việc trẻ em vùng cao được tiếp cận giáo dục, nhất là giáo dục hai buổi/ngày, trường bán trú và nội trú. Việc đi lại quá vất vả qua núi, khe suối khiến nhiều trẻ thiệt thòi, do vậy các mô hình trường bán trú là giải pháp thiết thực để bảo đảm tỷ lệ đi học và an toàn cho học sinh.
Hai là, về phát triển sản xuất hàng hóa, đề nghị không lặp lại cách làm cũ là cấp phát bò, giống cây cho từng hộ dân - cách làm đã chứng minh không tạo ra kinh tế hàng hóa thực sự. Theo đại biểu, cần tập trung phát triển vùng sản xuất tập trung, ưu tiên cây công nghiệp hoặc sản phẩm đặc thù, thay vì hỗ trợ nhỏ lẻ. Sản xuất hàng hóa muốn phát triển phải có doanh nghiệp đứng đầu chuỗi: bao tiêu sản phẩm, hướng dẫn kỹ thuật, kết nối thị trường. Doanh nghiệp muốn tham gia cần có quỹ đất tối thiểu và được tạo điều kiện để đầu tư, từ đó mới có thể liên kết bền vững với người dân.
Vì vậy, chương trình cần cơ chế ưu đãi mạnh hơn để thu hút doanh nghiệp làm “đầu tàu” dẫn dắt vùng nguyên liệu, hình thành các mô hình công nghiệp hóa nông nghiệp ở miền núi.
Ba là, chuyển đổi vùng sản xuất hàng hóa phải gắn với năng lực tiếp cận thị trường và giảm phụ thuộc vào hỗ trợ trực tiếp. Theo đại biểu, điều này giúp người dân thực sự chủ động, đồng thời tạo động lực để doanh nghiệp phát triển bền vững tại địa phương.

Đánh giá dự thảo chương trình được xây dựng công phu, bài bản, thể hiện đúng yêu cầu phát triển nông nghiệp - nông thôn trong giai đoạn mới, đại biểu Nguyễn Thị Lan ghi nhận 3 điểm tích cực: Cách tiếp cận tích hợp giảm trùng lặp; định hướng hiện đại, gắn chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn; mục tiêu rõ ràng, đặc biệt là mục tiêu nâng thu nhập và chất lượng sống nông thôn.
Đại biểu cho rằng, muốn chuyển từ “đạt chuẩn” sang “phát triển bền vững - bao trùm - hiện đại”, chương trình cần bổ sung một số nội dung cốt lõi.
Thứ nhất là nguồn nhân lực nông thôn. Đào tạo nghề trong dự thảo còn chung chung, trong khi nông nghiệp hiện nay đòi hỏi nhiều kỹ năng mới: số hóa, tự động hóa, quản trị sản xuất. Đại biểu đề nghị xây dựng chương trình đào tạo “nguồn nhân lực nông thôn thế hệ mới”, tập trung vào kỹ năng số, vận hành máy móc hiện đại và kỹ năng quản trị kinh doanh nông nghiệp; đồng thời tăng vai trò của các trường đại học, viện nghiên cứu trong chuyển giao công nghệ cho nông dân.
Thứ hai là khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Dự thảo chưa có tỷ lệ ngân sách cho khoa học công nghệ và chưa có cơ chế đặt hàng nghiên cứu hay thu hút doanh nghiệp công nghệ. Đại biểu đề nghị hình thành Quỹ Đổi mới sáng tạo nông thôn, ưu tiên công nghệ sinh học, giống, IoT, AI và tăng liên kết giữa viện - trường - doanh nghiệp - địa phương.
Thứ ba là kinh tế môi trường và thích ứng khí hậu. Đại biểu đề nghị bổ sung bộ chỉ số sức khỏe đất - nước, phát triển nông nghiệp carbon thấp, lồng ghép giải pháp khí hậu theo vùng và đưa tiêu chí kinh tế môi trường vào đánh giá xã nông thôn mới. Các nội dung này sẽ giúp bảo đảm phát triển bền vững và đáp ứng yêu cầu của thị trường nông sản.
Thứ tư là cơ chế phân cấp, giám sát và đo lường kết quả. Đại biểu đề nghị chuyển dần từ đánh giá số lượng xã đạt chuẩn sang đánh giá theo thu nhập, sinh kế, môi trường và mức độ giảm nghèo thực chất; xây dựng hệ thống giám sát số hóa và quy định trách nhiệm giải trình rõ ràng cho từng chủ đầu tư.












