Công nhận chức danh GS, PGS: Cần tính minh bạch

Chia sẻ

PNTĐ-Theo nhiều chuyên gia giáo dục, nếu không có những thay đổi căn bản về quy trình, tiêu chuẩn công nhận các chức danh này thì nhiều lùm xùm khác sẽ còn xảy ra trong các năm tới.

 
Cuối cùng, sau nhiều ngày rà soát, họp bàn, Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước đã công bố quyết định công nhận những ứng viên đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS năm 2017, qua đó tạm kết thúc những xì xào quanh việc công nhận GS, PGS năm nay. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia giáo dục, nếu không có những thay đổi căn bản về quy trình, tiêu chuẩn công nhận các chức danh này thì nhiều lùm xùm khác sẽ còn xảy ra trong các năm tới.
 
Công nhận chức danh GS, PGS: Cần tính minh bạch - ảnh 1
Chức danh GS, PGS không chỉ là công nhận về mặt khoa học
mà còn là danh dự, uy tín, ghi nhận trí tuệ của nhà trí thức
 
Nhà quản lý không thể là Giáo sư, Phó Giáo sư
 
Trong danh sách đi kèm quyết định có 1.131 người, ít hơn 95 người so với danh sách công bố trước đó. Có một trường hợp bị loại do thiếu minh chứng đạt tiêu chuẩn trong hồ sơ; trong 94 trường hợp còn lại chưa đảm bảo đầy đủ tiêu chuẩn theo quy định, cần xác minh thêm hoặc có đơn thư khiếu nại, tố cáo có nhiều cán bộ quản lý  như ứng viên Nguyễn Thị Kim Tiến - Bộ trưởng Bộ Y tế; ứng viên Lê Quân - Thứ trưởng Bộ LĐ-TB-XH; ứng viên Trương Xuân Cừ - Phó trưởng Ban chỉ đạo Tây Bắc; ứng viên Hà Anh Đức - thư ký Bộ trưởng Bộ Y tế; ứng viên Nguyễn Hùng Long - Phó Cục trưởng Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế); ứng viên Lê Quang Minh - Giám đốc Sở Y tế Hà Nam; ứng viên Trịnh Thanh Hùng - Phó vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ các ngành Kinh tế kỹ thuật Bộ Khoa học và công nghệ...
 
TS Lê Viết Khuyến, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ GD ĐH, Bộ GD-ĐT cho biết: Không phải tới thời điểm năm 2018 mới xuất hiện những ì xèo trong công nhận chức danh GS, PGS. Cách đây 3 năm, chính ông đã từng phát biểu cảnh báo những bất cập trong quy trình công nhận chức danh GS, PGS ở nước ta. Tuy nhiên cảnh báo này đã không được chú ý dẫn tới bất cập vẫn tồn tại kéo dài. “Hiện nay, có thực tế là đội ngũ GS, PGS còn vàng thau lẫn lộn. Ngoài ứng viên “rởm” như không có công trình nào được ghi nhận, không có đóng góp ích lợi cho đào tạo, khoa học… thì có khá nhiều nhà quản lý cũng “đua” nhau làm GS, PGS…”.
 
Theo TS Khuyến, nếu việc công nhận GS, PGS được thực hiện chặt chẽ, chuẩn chỉ, chính xác thì số ứng viên được công nhận hàng năm sẽ rất ít. “Trước khi tôi đảm nhiệm vị trí Vụ phó Vụ ĐH, tôi từng làm nghiên cứu, giảng dạy và đã có đủ điều kiện để được công nhận chức danh PGS. Tuy nhiên, khi đảm đương cương vị mới tôi xác định mình không nên nộp hồ sơ làm PGS. Vì thế, đến nay, tôi chỉ là Tiến sĩ chứ không phải PGS”. Theo ông Khuyến, một nhà làm quản lý không thể còn thời gian, tâm trí… nghiên cứu khoa học. Hơn thế, quản lý hành chính hoàn toàn khác với làm nghiên cứu. Chỉ cần sau vài năm thoát ly chuyên môn là nhà quản lý sẽ bị tụt hậu. “Nếu một người nói vừa quản lý, lại vừa có công trình nghiên cứu khoa học thì cần phải xem lại họ có thực sự nghiên cứu không và nghiên cứu vào lúc nào hay đó chỉ là công trình của người khác”.
 
Trong khi đó, GS.TSKH Phạm Minh Hạc, nguyên Bộ trưởng Bộ GD-ĐT cho rằng, không thể chấp nhận người “đeo mác” GS, PGS mà lại gian dối trong nghiên cứu khoa học và vi phạm đạo đức nhà giáo như trường hợp TS Đặng Công Tráng, Trưởng khoa Luật ĐH Công nghiệp TP Hồ Chí Minh vừa qua. Ông Tráng lẽ ra đã được công nhận đạt chuẩn PGS  năm 2017 “trót lọt” nếu không có tố cáo đã sao chép công trình nghiên cứu khoa học của người khác. Chính sự để lọt các GS, PGS rởm này đã làm ảnh hưởng tới uy tín của đội ngũ trí thức.

Phải thay đổi quy trình công nhận GS, PGS
 
GS.TSKH Phạm Minh Hạc khi là Phó Trưởng ban thứ Nhất Ban Tuyên giáo Trung ương đã có 6 năm làm Chủ tịch Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước (từ năm 2001-2006”. Ông cho biết: Ngày đó, Hội đồng chức danh bao gồm các nhà khoa học đứng đầu các ngành có uy tín cả về trình độ lẫn đạo đức như bác sĩ Nguyễn Đình Hối hội đồng Y, GS.TS Nguyễn Xuân Đào, hội đồng Giao thông vận tải… Các thành viên hội đồng làm việc rất nghiêm túc, rà soát hồ sơ của ứng viên kỹ lưỡng nên việc công nhận đạt GS, PGS ngày đó không bị dư luận phản ứng.
 
Vì thế, theo GS Hạc, trước tiên, Hội đồng Chức danh Giáo sư trước tiên phải “chuẩn chỉ”, đủ khả năng để bình xét ứng viên có đủ tiêu chuẩn được công nhận GS, PGS hay không. Muốn vậy, Nhà nước nhất thiết phải tuyển chọn công khai các thành viên có trình độ, đứng đầu các ngành, nhận được niềm tin của xã hội.  
 
Theo ông Khuyến, thành viên hội đồng được giao thẩm định hồ sơ ứng viên nhưng chưa chắc có chuyên môn trong lĩnh vực được thẩm định hay đã đọc hết các cuốn sách, báo mà ứng viên đó viết. Vậy nên mới có tình trạng, ứng viên đủ tiêu chuẩn được công nhận GS, PGS mà xào công trình nghiên cứu nhưng Hội đồng không biết gì.
 
Trong khi đó, một số chuyên gia cho rằng, cách công nhận GS, PGS hiện nay cũng cần thay đổi. Đó là thay vì bỏ phiếu kín các thành viên trong Hội đồng nên bày tỏ công khai ý kiến của mình về các ứng viên. Như vậy, mỗi thành viên Hội đồng sẽ phải chịu trách nhiệm về quan điểm của mình, tạo tính minh bạch hơn.

Chức danh GS, PGS có nên tồn tại suốt đời?
 
TS Khuyến cho rằng, đã đến lúc, nên trả chức danh GS, PGS về cho các trường. Dựa trên các tiêu chuẩn Nhà nước đưa ra với chức danh  này, các hội đồng của từng trường sẽ xây dựng chuẩn riêng cho trường mình. Chuẩn GS của trường top đầu có thể cao hơn các trường ĐH khác nhưng không được thấp hơn chuẩn do Nhà nước quy định. Như vậy, các trường khẳng định uy tín của mình thông qua việc công nhận chức danh GS, PGS.
 
Trình độ GS, PGS cũng thể hiện qua việc họ đến từ ngôi trường nào. Việc trả đãi ngộ cho GS, PGS cũng không nên dựa vào ngân sách Nhà nước mà là trách nhiệm của từng trường ĐH. Khi GS, PGS chuyển qua trường khác thì chức danh GS, PGS ở trường cũ cũng bị thu hồi. Ngoài ra, chỉ nên phong GS, PGS giới hạn trong khoảng thời gian là 5 năm. Sau 5 năm đó, nếu GS, PGS không tiếp tục cống hiến, đóng góp hữu ích cho nhà trường, khoa học thì sẽ bị thu hồi chức danh này.
 
Tuy nhiên, GS Nguyễn Xuân Hãn, ĐH Quốc gia cho rằng, đề xuất này là không thuyết phục bởi Việt Nam không thể giống như cách làm của các trường ĐH ở phương Tây. Nếu để cho các trường ĐH tự phong GS, PGS sẽ dẫn tới tình trạng mất kiểm soát số lượng GS, PGS. “Hiện nay, so với thế giới, tiêu chuẩn để được công nhận GS, PGS của chúng ta đã thấp hơn nhiều. Vậy, nếu không có một Hội đồng của Nhà nước làm trọng tài và thẩm định mà giao cho các trường thì tôi không biết sẽ gây hậu quả như thế nào. Không thể vì một vài bất cập mà xóa bỏ Hội đồng này”.
 
Thêm vào đó, theo GS Nguyễn Xuân Hãn, chức danh GS, PGS không chỉ là công nhận về mặt khoa học, mà còn là danh dự, uy tín, ghi nhận trí tuệ của một nhà trí thức. Vì thế, việc “cắt” GS, PGS của một người khi họ nghỉ hưu, hay là chuyển trường ĐH… là không phù hợp với văn hóa Á Đông và làm tổn thương người trí thức chân chính.
Theo GS Hãn, thay vì giao việc phong tặng GS, PGS cho các trường ĐH, cách làm đúng là nên yêu cầu các cơ sở giáo dục phải thẩm định và chịu trách nhiệm hồ sơ đề nghị xét GS, PGS chứ không thể phó mặc cho Hội đồng chức danh. “Hội đồng không thể ngồi đọc từng bài báo, công trình của từng ứng viên vì không thể đủ khả năng làm việc đó mà công việc này do các trường chịu trách nhiệm. Nếu để lọt “ứng viên rởm” thì người đúng đầu cơ sở đó phải bị liên đới”.
 
Trung Thu

Tin cùng chuyên mục

Hoàn thành triển khai thí điểm học bạ số bậc tiểu học với 11.400 trường tiểu học

Hoàn thành triển khai thí điểm học bạ số bậc tiểu học với 11.400 trường tiểu học

(PNTĐ) - Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã hoàn thành triển khai thí điểm học bạ số bậc tiểu học với 11.400 trường tiểu học trên tổng số 14.663 trường tiểu học; 100% cơ sở giáo dục tham gia thí điểm thuộc 63 tỉnh/thành thực hiện kết nối, đồng bộ dữ liệu học bạ về cơ sở dữ liệu học bạ số do Bộ GD&ĐT quản lý.
Đề nghị địa phương hỗ trợ kinh phí dạy thêm cho học sinh cuối cấp

Đề nghị địa phương hỗ trợ kinh phí dạy thêm cho học sinh cuối cấp

(PNTĐ) - Theo điều kiện thực tế của địa phương, UBND tỉnh chỉ đạo hỗ trợ kinh phí phù hợp cho các cơ sở giáo dục để tổ chức ôn tập, bồi dưỡng học sinh, đặc biệt là học sinh còn gặp khó khăn trong học tập, học sinh cuối cấp, đối tượng yếu thế, học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn, học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.