Mẹ (số 41)

Chia sẻ

Cả cuộc đời cha đi bộ đội
Quà về cho mẹ là mái tóc pha sương
Và trên ngực là những vết thương
Cứ trở gió lại đau nhức nhối
Chiếc ba lô gió sương đã gội
Gia tài cha tặng mẹ... chỉ thế thôi

Mẹ đón cha lặng lẽ
Mắt rạng ngời lệ đẫm những cách xa
Hai mươi năm ngày cưới
Đến hôm nay đời chồng vợ bắt đầu
Hai mươi năm lấy nhau
Mẹ đẻ con và nuôi con một mình

Tháng năm trôi...
Cả cuộc đời cha đi bộ đội
Những đứa con lớn khôn,
lại ra đi,
ra đi.

Mẹ ơi những khi con hạnh phúc
Rồi khi con của mẹ va vấp
Chỉ một chỗ gục vào là mẹ
Mẹ ơi!

Con của mẹ là gái
Chỉ xin một phần của mẹ thôi,
Để làm mẹ sau này!
                                         26/10/1988
                                      Đoàn Ngọc Thu

Ảnh minh họaẢnh minh họa

LỜI BÌNH
Trong các sáng tác của Đoàn Ngọc Thu bài thơ "Mẹ" đặc biệt khiến người đọc rất xúc động. Thi phẩm giàu sức khái quát này đã ghi nhận, ngợi ca và tri ân sâu sắc tới những người mẹ suốt đời vất vả hy sinh vì chồng con và đất nước.

Dùng thể thơ tự do, kiểu câu dài ngắn đa dạng, tác giả đã gửi gắm nhiều cung bậc cảm xúc. Với phương thức tự sự, mở đầu bài kể câu chuyện cuộc đời mẹ, lại vừa như một đoạn phim sống động tái hiện hoàn cảnh của mẹ cha và bao gia đình khác: "Cả cuộc đời cha đi bộ đội/ Quà về cho mẹ là mái tóc pha sương/ Và trên ngực là những vết thương/ Cứ trở gió lại đau nhức nhối/ Chiếc ba lô gió sương đã gội/ Gia tài cha tặng mẹ... chỉ thế thôi".

Ngôn ngữ thơ cô đọng, những dấu chấm lửng gợi nhiều liên tưởng, có sức khái quát cao qua hình ảnh chân thực, đắt giá phản ánh một thực tế trong đời sống dân tộc: "Khi có giặc người con trai ra trận/ Người con gái trở về nuôi cái cùng con" (Nguyễn Khoa Điềm). Người cha đi chiến đấu dũng cảm nơi tiền tuyến, mẹ ở lại gánh vác mọi việc. Giặc tan rồi, cha trở lại quê hương, "quà về cho mẹ" là mái tóc đã bạc vì năm tháng gian lao và vết thương trên mình "nhức nhối" cùng chiếc ba lô "gió sương đã gội" bạc màu, sờn rách. Cách dùng từ "quà" ở đây là một sáng tạo độc đáo. Thông thường "quà" là để chỉ thức mua để ăn thêm hay vật dùng để biếu, tặng. Vậy mà ở đây "quà" lại là "mái tóc" bạc và "những vết thương" - một phần thể chất con người. Song với mẹ và người thân, sự trở về của cha đúng là món quà vô giá nhất. Hưởng niềm vui hội ngộ mẹ chỉ "lặng lẽ" nhưng "mắt rạng ngời".

Ảnh minh họaẢnh minh họa

Hạnh phúc lớn nhưng xót đau không hề nhỏ vì tuổi xuân của mẹ đã trôi qua: "Hai mươi năm ngày cưới/ Đến hôm nay đời chồng vợ bắt đầu". Đọc đoạn thơ, ai cũng rưng rưng vì thương xót và cảm phục mẹ cùng những lứa đôi khác "Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau" (Nguyễn Mỹ). Thương và phục mẹ hơn nữa bởi "Hai mươi năm lấy nhau/ Mẹ đẻ con và nuôi con một mình". "Hai mươi năm" là hơn bảy ngàn ngày, "một mình" mẹ vật lộn mưu sinh, "một mình" mẹ sinh nở, "một mình" nuôi con lớn khôn. Để làm nên điều ấy, biết bao mồ hôi và nước mắt đã đổ... Nhờ những người như mẹ, Tổ quốc mới có được bao đứa con lớn "ra đi/ ra đi" cứu nước tiếp bước ông cha.

Ở hậu phương, những đứa trẻ vắng tình cảm và sự dạy dỗ của cha, lại càng thương mẹ hơn bởi phải cáng đáng tất cả. Chủ thể trữ tình nghẹn ngào nhớ lại: "Mẹ ơi những khi con hạnh phúc/ Rồi khi con của mẹ va vấp/ Chỉ một chỗ gục vào là mẹ/ Mẹ ơi!". Hai đoạn thơ cuối chỉ gồm ba câu, vần điệu gồ ghề với hai thanh trắc "phúc" và "vấp" cuối mỗi câu. Đây hẳn là dụng ý của người viết nói lên cảnh ngộ bất bình thường của đứa con. Riêng kết bài là câu cảm thán đặc biệt chỉ hai từ "Mẹ ơi!". Ý thơ cô đọng toát lên niềm tri ân và thành kính thiêng liêng với mẹ... Bài thơ khép lại, chủ thể trữ tình bày tỏ mong muốn "Chỉ xin được một phần của mẹ thôi". Đây là sự ngợi ca: Mẹ vĩ đại biết nhường nào, con chỉ mong có được một phần của mẹ là đủ! Trong bài, từ "mẹ" điệp tới 12 lần, tác giả nhấn mạnh và ngợi ca hơn nữa cuộc đời mẹ đã hy sinh vì mục đích cao đẹp.

Nhạc sĩ Phan Long đã phổ nhạc thi phẩm thành bài hát “Mẹ Việt Nam” - một bài ca đi cùng năm tháng và luôn gây xúc động lòng người.

THÁI DŨNG

Tin cùng chuyên mục

Phim lịch sử, chiến tranh Việt Nam: Dấu ấn của ký ức và niềm tự hào

Phim lịch sử, chiến tranh Việt Nam: Dấu ấn của ký ức và niềm tự hào

(PNTĐ) - Điểm lại lịch sử điện ảnh Việt, dòng phim về chiến tranh tuy không sôi động nhưng mỗi tác phẩm đều để lại những dấu ấn mạnh mẽ trong lòng khán giả, trở thành những bài học lịch sử sống động đi vào lòng người, nhắc nhở chúng ta không quên những năm tháng cha anh đã sống và chiến đấu như thế, không quên lịch sử nước nhà đã trải qua những gì để có cuộc sống hòa bình, êm ấm như hôm nay… Cũng vì vậy, chúng ta thật sự phấn chấn khi dòng phim chiến tranh đang “nở rộ” và được công chúng đón nhận nhiệt tình gần đây.
169 hạt sen và giấc mơ vũ trụ Việt

169 hạt sen và giấc mơ vũ trụ Việt

(PNTĐ) - Khi đồng hồ điểm 8h30 sáng ngày 14/4 tại Texas, Mỹ, tên lửa New Shepard của công ty du hành vũ trụ Blue Origin rời bệ phóng, mang theo 6 người phụ nữ can đảm, đánh dấu chuyến bay có phi hành đoàn toàn nữ đầu tiên kể từ sau sứ mệnh của nữ phi hành gia Valentina Tereshkova năm 1963. Trong số đó, một cái tên khiến hàng triệu người Việt Nam tự hào: Amanda Nguyễn - người phụ nữ gốc Việt đầu tiên chính thức bay vào vũ trụ.
Gia đình không ruột thịt

Gia đình không ruột thịt

(PNTĐ) - Ông sinh vào tháng 5 năm 1960 trong một gia đình nghèo ở xã Bảo An, thành phố Giang Sơn, tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc). Mất cha từ khi còn nhỏ, ông ra ngoài kiếm sống khi mới 9 tuổi, chăn vịt cho người khác, nhặt rác, bán hàng rong và dựng quầy hàng... Không có nơi ở cố định, ông sống cuộc sống lang thang ở vùng núi biên giới các tỉnh Phúc Kiến, Chiết Giang và Giang Tây.