Bổ sung vai trò của hệ thống đại học - viện nghiên cứu, kết hợp với số hóa quản lý và liên thông dữ liệu quốc tế
(PNTĐ) - Sáng 6/11, góp ý Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, đại biểu Quốc hội, GS.TS. Nguyễn Thị Lan, Học viện nông nghiệp Việt Nam nhấn mạnh: Việc sửa đổi là rất cần thiết, nhằm bảo đảm phù hợp với mô hình chính quyền hai cấp, đáp ứng yêu cầu tinh gọn bộ máy, tăng cường phân cấp, phân quyền, đồng thời cụ thể hóa các nghị quyết mới của Đảng và Bộ Chính trị về phát triển khoa học - công nghệ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi số.
Góp ý Điều 15 – sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trồng trọt 2018, đại biểu Nguyễn Thị Lan cho rằng dự thảo đã thể hiện rõ định hướng hoàn thiện thể chế quản lý về giống cây trồng, phân bón, mã số vùng trồng và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Tuy nhiên, cần bổ sung một số nội dung để tăng tính khả thi và hiệu quả quản lý.

Về quản lý giống cây trồng và phân bón (khoản 3 Điều 9), đại biểu Nguyễn Thị Lan đề nghị bổ sung vai trò của các cơ sở đào tạo, nghiên cứu nông nghiệp trong công tác kiểm định, đánh giá độc lập chất lượng giống và phân bón.
Đại biểu dẫn chứng, ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Hà Lan, các trường đại học nông nghiệp được công nhận là phòng thí nghiệm tham chiếu quốc gia, giúp tăng tính khách quan và cập nhật tiến bộ khoa học vào quản lý. “Việt Nam nên bổ sung quy định tương tự để huy động trí tuệ khoa học trong kiểm soát chất lượng đầu vào ngành trồng trọt”- đại biểu nói.
Về công nhận và gia hạn lưu hành giống (khoản 2 Điều 15), đại biểu đồng tình việc nâng thời hạn lưu hành lên 20 năm với cây hàng năm, 25 năm với cây lâu năm, song đề nghị quy định rõ điều kiện gia hạn. Theo đại biểu, việc gia hạn cần dựa trên đánh giá định kỳ về năng suất, tính ổn định di truyền, khả năng thích nghi và tác động môi trường do các đơn vị nghiên cứu – đào tạo được Bộ chỉ định thực hiện. Đại biểu cũng gợi ý áp dụng cơ chế kiểm định DUS (Distinctness, Uniformity, Stability) như các nước OECD, nhằm đảm bảo khoa học, minh bạch, tránh tình trạng giống bị thoái hóa vẫn lưu hành.
Về khảo nghiệm phân bón (Điều 40), đại biểu Nguyễn Thị Lan nhất trí với yêu cầu về chuyên môn và cơ sở vật chất đạt chuẩn, nhưng kiến nghị: Bộ cần công khai danh sách các tổ chức được phép khảo nghiệm và đánh giá lại năng lực định kỳ; đồng thời cho phép các viện nghiên cứu, trường đại học có phòng thí nghiệm đạt chuẩn ISO/IEC 17025 tham gia mạng lưới khảo nghiệm quốc gia.
Đại biểu cho rằng, việc huy động các viện, trường như Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Đại học Cần Thơ, Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh sẽ giúp tăng năng lực kiểm định, giám sát chất lượng phân bón và vật tư nông nghiệp.
Về điều kiện buôn bán phân bón (Điều 42), dự thảo đã yêu cầu người kinh doanh có trình độ hoặc được tập huấn chuyên môn. Đại biểu Nguyễn Thị Lan đề xuất thiết lập cơ chế cấp mã số hành nghề và đào tạo định kỳ (CPD) cho người kinh doanh, tương tự mô hình “Certified Fertilizer Dealer” của Hoa Kỳ, Canada. Cách làm này sẽ chuyên nghiệp hóa đội ngũ phân phối vật tư nông nghiệp và giảm gian lận thương mại.

Về mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói (Điều 64), đại biểu Nguyễn Thị Lan đánh giá cao định hướng số hóa và truy xuất nguồn gốc. Tuy nhiên, cần xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về vùng trồng do Bộ Nông nghiệp và Môi trường quản lý, kết nối với hệ thống Hải quan và các thị trường nhập khẩu. Đồng thời, nên cho phép viện nghiên cứu, trường đại học tham gia thẩm định kỹ thuật vùng trồng và đánh giá tiêu chuẩn GAP. Mô hình này, theo bà, đã được Thái Lan, Trung Quốc, Chile áp dụng, giúp mã số vùng trồng được quốc tế công nhận, tạo lợi thế xuất khẩu.
Đại biểu Nguyễn Thị Lan cũng nhấn mạnh cần bổ sung điều khoản về vai trò của các trường đại học, viện nghiên cứu trong hệ thống quản lý trồng trọt quốc gia. Các cơ sở này không chỉ đào tạo nhân lực mà còn là đối tác kỹ thuật trong nghiên cứu giống, kiểm định phân bón, đánh giá chất lượng và tư vấn chính sách. Đây là hướng hợp tác “nhà nước – nhà khoa học – doanh nghiệp – nông dân” theo mô hình Teagasc (Ireland) hay INRAE (Pháp), giúp tăng năng lực phản biện và đưa khoa học – công nghệ vào hoạch định chính sách.
Theo đại biểu Nguyễn Thị lan, Điều 15 của dự thảo đã đi đúng hướng, nhưng để khả thi, cần mở rộng từ quản lý hành chính sang quản trị tri thức, từ giám sát bằng thủ tục sang giám sát bằng dữ liệu và khoa học. Việc phát huy vai trò của hệ thống đại học – viện nghiên cứu, kết hợp với số hóa quản lý và liên thông dữ liệu quốc tế sẽ giúp Việt Nam nâng cao chất lượng trồng trọt, bảo vệ môi trường, bảo đảm an toàn thực phẩm và hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị nông nghiệp toàn cầu.










