Vì sao việc gần gũi giữa mẹ và trẻ sơ sinh rất cần thiết?

LÂM ANH (Theo psypost.org)
Chia sẻ

(PNTĐ) - Theo một nghiên cứu mới đây, các nhà khoa học khẳng định, việc gần gũi giữa mẹ và trẻ sơ sinh rất cần thiết, bởi sẽ kích thích sự đồng bộ não.

Đồng bộ hóa não đóng một vai trò quan trọng trong kết nối, giao tiếp...

Bộ não con người cực kỳ giỏi trong việc xử lý và phản hồi các tín hiệu xã hội, một kỹ năng cần thiết để sinh tồn và tương tác xã hội. Các nhà nghiên cứu từ lâu đã bị say mê với cách bộ não của chúng ta có thể đồng bộ hóa khi tiếp xúc với những trải nghiệm giống nhau, đặc biệt là những trải nghiệm sôi nổi như phim ảnh hoặc truyện. Hiện tượng này, được gọi là đồng bộ hóa não, được cho là đóng một vai trò quan trọng trong cách chúng ta kết nối, giao tiếp và đồng cảm với người khác.

Nghiên cứu “Lời nhắc về sự gắn bó kích hoạt sự đồng bộ rộng rãi trên nhiều bộ não“, vừa được công bố bởi Ortal Shimon-Raz, Yaara Yeshurun, Adi Ulmer-Yaniv, Ayelet Levinkron, Roy Salomon và Ruth Feldman.

Quan nghiên cứu, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng việc quan sát sự tương tác hàng ngày giữa mẹ và con có thể kích hoạt các mẫu hoạt động não bộ tương tự ở các bà mẹ khác nhau. Sự đồng bộ thần kinh này, đặc biệt thấy được trong những bối cảnh thể hiện sự gần gũi giữa mẹ và con, làm nổi bật tác động sâu sắc của những gắn bó cơ bản như vậy đối với bộ não của chúng ta.

Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Khoa học thần kinh (psypost.org) đã làm sáng tỏ nền tảng thần kinh học của các mối quan hệ xã hội của con người.

Nhận thức được bản chất sâu xa của mối liên kết giữa mẹ và con, các nhà khoa học đặc biệt quan tâm đến việc khám phá liệu mối liên kết này có thể kích hoạt phản ứng não bộ chung giữa các cá nhân khác nhau hay không. Nghiên cứu này nhằm mục đích đi sâu vào những phản ứng thần kinh được chia sẻ này, cung cấp những hiểu biết sâu sắc về chính cơ cấu xã hội và sự kết nối của con người.

Vì sao việc gần gũi giữa mẹ và trẻ sơ sinh rất cần thiết? - ảnh 1
Ảnh minh họa. Nguồn: Int

Tác giả nghiên cứu Ruth Feldman, Giáo sư chủ trì về Khoa học thần kinh xã hội của trung tâm Simms/Mann và giám đốc Trung tâm Khoa học thần kinh xã hội tiến triển ở Đại học Reichman (Israel) đồng thời là giáo sư phụ trợ tại Trung tâm Nghiên cứu Trẻ em Đại học Yale (Mỹ), cho biết: “Tôi đã nghiên cứu sự đồng bộ trong gần ba năng thích ứng và khả năng phục hồi của con người”.

Mô hình lý thuyết của tôi về sự đồng bộ hành vi sinh học đã dựa trên cơ sở nhiều nghiên cứu đề xuất rằng, chúng ta kết nối với những người khác bằng não bộ và các hệ thống sinh học khác trong quá trình tiếp xúc xã hội. Chúng tôi cũng gợi ý rằng bối cảnh mẹ-con là nơi trẻ sơ sinh của con người, giống như bất kỳ động vật có vú non nào, có được khả năng đồng bộ và sự gắn bó chính là bối cảnh tốt để nghiên cứu chủ đề này.”

Feldman giải thích: “Nhưng cho đến nay, chúng tôi (và những người khác) đã nghiên cứu sự đồng bộ giữa não bộ của hai cá nhân – giữa bà mẹ và trẻ sơ sinh – trong các tương tác xã hội. Đây là nghiên cứu đầu tiên sử dụng lời nhắc về sự gắn bó chủ – video về bà mẹ và trẻ sơ sinh (một kích thích được hiểu ngay lập tức mà không cần lời nói) để xem cách thức (và ở đâu) mà kích thích cơ bản này tạo ra sự đồng bộ trên nhiều bộ não, có khả năng đóng vai trò như một cơ sở cho sự đồng nhất xã hội và sự tập hợp các cá nhân thành các nhóm xã hội”.

Nghiên cứu có sự tham gia của một nhóm gồm 35 bà mẹ sau sinh được lựa chọn cẩn thận, được tuyển chọn thông qua các diễn đàn nuôi dạy con cái trực tuyến. Sau quá trình sàng lọc kỹ lưỡng về mức độ phù hợp và sức khỏe tâm thần, 24 người tham gia đã được quyết định tham gia nghiên cứu.

Những bà mẹ này đã trải qua hai buổi chụp ảnh cộng hưởng từ não (MRI), trong đó họ được xem những đoạn phim tự nhiên về sự tương tác giữa mẹ và con. Những bộ phim này bao gồm cả cảnh những bà mẹ họ không quan biết bế con của họ và những cảnh quay được thiết kế riêng về những người tham gia cùng với con của họ.

Các kịch bản được mô tả rất đa dạng, từ bối cảnh 'xã hội', nơi mẹ và con ở cùng nhau, đến bối cảnh 'cô độc', trong đó mỗi nhân vật xuất hiện riêng lẻ. Tính độc đáo của nghiên cứu này càng được nâng cao nhờ thiết kế chéo của nó: trước mỗi lần quét, những người tham gia được cho dùng oxytocin – một loại hormone liên quan đến liên kết xã hội – hoặc giả dược, theo cách mù và ngẫu nhiên.

Khi những người tham gia xem video về sự tương tác giữa mẹ và con, một số vùng não nhất định cho thấy hoạt động đồng bộ ở các cá nhân khác nhau. Đáng chú ý, sự đồng bộ này xảy ra ở phần lớn não bộ, với khoảng 44% vùng não được kiểm tra phản ứng với những tín hiệu gắn bó này.

Sự đồng bộ này đặc biệt rõ ràng trong các tình huống mà các bà mẹ tương tác với con của họ, trái ngược với khi họ được chiếu một mình. Các vùng não chính liên quan đến sự đồng bộ hóa này bao gồm những vùng liên quan đến xử lý cảm xúc và nhận thức xã hội, chẳng hạn như vỏ não vành trước và thùy não.

Các phát hiện chỉ ra rằng: “Chúng ta có xu hướng kết nối với người khác một cách trung lập và một số tình huống hoặc kích thích tạo ra nhiều hơn sự đồng bộ giữa các bộ não và tạo ra sự đồng nhất cao hơn giữa các bộ não”, Feldman nói với PsyPost. “Sự nhắc nhở về sự gắn bó chính sẽ làm việc trong não của chúng ta để tạo ra một khuôn mẫu cho sự phối hợp của các cá nhân trong các nhóm xã hội".

Đáng ngạc nhiên là việc sử dụng oxytocin không làm thay đổi đáng kể khuôn mẫu đồng bộ hóa não quan sát được. Điều này cho thấy bản thân các dấu hiệu gần gũi giữa mẹ-con mang tính tự nhiên đã đủ mạnh để kích hoạt các phản ứng chung của não, không phụ thuộc vào các ảnh hưởng bổ sung của nội tiết tố.

Hơn nữa, nghiên cứu còn tiết lộ mối tương quan thú vị giữa sự đồng bộ về hành vi được quan sát – sự tương tác phối hợp giữa mẹ và trẻ sơ sinh trong video – và mức độ đồng bộ hóa não bộ giữa những người xem. Nói cách khác, những khoảnh khắc tương tác gần gũi hơn, hài hòa hơn giữa mẹ và con trong video cho thấy hoạt động não đồng bộ hơn giữa những người tham gia.

Feldman giải thích: “Sự thay đổi từng giây trong sự đồng bộ giữa các bộ não bám sát những thay đổi từng khoảnh khắc về mức độ đồng bộ do kích thích được đưa ra. Khi những người tham gia nhìn thấy khoảnh khắc có tính đồng bộ cao giữa mẹ và con trong video, họ sẽ tăng phản ứng đồng bộ của mình. Điều này thực sự cho thấy sự đồng bộ hóa thần kinh được diễn đạt như thế nào trong sự phối hợp hành vi, nguyên lý chính của mô hình khái niệm đồng bộ hóa hành vi sinh học của chúng tôi”.

Nghiên cứu mang tính đột phá nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định

Mặc dù những phát hiện của nghiên cứu này mang tính đột phá nhưng chúng vẫn có những hạn chế nhất định. Nhóm người tham gia tương đối đồng nhất - tất cả đều là bà mẹ sau sinh, điều này đặt ra câu hỏi về việc làm thế nào những phát hiện này có thể khái quát hóa cho các nhóm khác, chẳng hạn như những người cha, những người không phải là cha mẹ hoặc những cá nhân có nền tảng văn hóa xã hội khác nhau.

Hơn nữa, nghiên cứu tập trung vào sự tương tác tích cực giữa mẹ và con. Khám phá cách bộ não phản ứng với nhiều tín hiệu xã hội hơn, bao gồm cả những tín hiệu tiêu cực hoặc đau buồn, có thể mang lại sự hiểu biết toàn diện hơn về hoạt động của bộ não xã hội của chúng ta.

Một con đường khác cho nghiên cứu trong tương lai nằm ở việc khám phá cách áp dụng những phát hiện này đối với những cá nhân bị rối loạn chức năng xã hội, chẳng hạn như những người mắc chứng tự kỷ hoặc trầm cảm. Hiểu được liệu những tình trạng này có ảnh hưởng đến phản ứng của não đối với các tín hiệu xã hội như mối liên kết giữa mẹ và con hay không có thể mở ra những cánh cửa mới cho các can thiệp trị liệu.

Feldman cho biết: “Các nghiên cứu trong tương lai nên kiểm tra xem liệu những người mắc bệnh lý liên quan đến rối loạn chức năng xã hội, chẳng hạn như chứng tự kỷ, trầm cảm, rối loạn căng thẳng sau sang chấn (PTSD) hoặc tâm thần phân liệt, có thể hòa nhập đồng bộ với những người khác khi xuất hiện các kích thích gắn bó hoặc kích thích xã hội khác hay không (và phần nào của não không đồng bộ ở bệnh lý riêng biệt). Tôi tin rằng điều này có thể là căn nguyên của sự rối loạn chức năng xã hội và gây ra cảm giác cô đơn cũng như không thể hiểu được người khác".

“Ví dụ, trong khi những người khỏe mạnh sẽ đồng bộ hóa gần một nửa sự kích hoạt não bộ khi xem video quay cảnh mẹ và trẻ sơ sinh chơi đùa, thì sự đồng bộ giữa bộ não của một cá nhân mắc chứng tự kỷ sẽ như thế nào?”.

Tin cùng chuyên mục

Bài 1: Hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu thiếu và yếu

Bài 1: Hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu thiếu và yếu

(PNTĐ) - Tuổi thọ dân số tăng là một trong những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội và chăm sóc sức khỏe người dân của Việt Nam. Tuy nhiên, già hóa dân số diễn ra với tốc độ nhanh đặt ra những thách thức rất lớn về sự cần thiết phải thay đổi hệ thống an sinh xã hội, lao động việc làm, vui chơi giải trí,… đặc biệt là hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đang có nhiều “khoảng trống”.
Hà Nội ghi nhận thêm 8 ổ dịch tay chân miệng mới

Hà Nội ghi nhận thêm 8 ổ dịch tay chân miệng mới

(PNTĐ) - Theo thông tin từ Sở Y tế Hà Nội, trong tuần từ 19 – 26/4, toàn Thành phố ghi nhận 16 trường hợp mắc sốt xuất huyết (tăng 9 ca so với tuần trước) và 170 trường hợp mắc tay chân miệng (giảm 25 ca so với tuần trước).