Chuyện tình của tướng Lương
PNTĐ-Với anh hùng lực lượng vũ trang Lê Mã Lương, người yêu, người vợ - cô giáo Lê Thị Bích Đào là hiện thân cho sự hi sinh để chồng phấn đấu vì sự nghiệp.
Câu chuyện tình “dưới đáy ba lô” của họ được minh chứng bằng kỷ vật là những lá thư, cuốn nhật ký và món quà tình yêu một thuở.
Tỏ tình bằng những câu thơ của Các-Mác
Ngồi ôn lại chuyện cũ, cô giáo Lê Thị Bích Đào kể cho tôi nghe về những kỷ vật của gia đình, đó là chiếc áo len, cuốn nhật ký và hàng trăm lá thư của hai vợ chồng vẫn đang được lưu giữ cẩn thận. “Bốn năm yêu nhau, từ 1971 đến 1974, xa nhau đằng đẵng nhưng sợi dây kết nối luôn là những lá thư chan chứa tình cảm với đầy ắp lời động viên. Nhờ thế, chúng tôi luôn thấy vẫn gần bên nhau”.
![]() |
Vợ chồng thiếu tướng Lê Mã Lương - cô giáo Lê Thị Bích Đào |
Ngày 22/12/1971, chị Đào là Bí thư chi đoàn TNCS Hồ Chí Minh trường cấp 2 Tiền Phong (Mê Linh, HN) được cử sang Học viện Chính trị mời anh hùng Lê Mã Lương về giao lưu với giáo viên và học sinh. Kết thúc buổi giao lưu, anh lên sân khấu, bắt tay chị thật chặt để làm quen. Tình cảm hai người bắt đầu từ đó.
Một lần sang nhà chị Đào chơi, anh Lương cứ ngần ngại mãi không nói được vào chuyện chính. Cuối cùng, anh phải mượn những câu thơ của Các-Mác, cũng là tiếng lòng anh ấp ủ bao tháng ngày để ngỏ lời yêu: “Anh sẽ là của em mãi mãi/ Khi chia tay em hãy nhớ anh/ Trao em tất cả trái tim/ Tặng anh, em nhé mối tình lòng em…”.
Chiến tranh ngày càng bước vào giai đoạn khốc liệt, năm 1972, anh Lương trở lại chiến trường Trị Thiên- Huế. Biết rằng sẽ phải xa nhau, chị không dám vào gặp anh, chỉ đứng chờ bên bờ mương nhỏ, nhìn theo cho đến khi đoàn xe có anh khuất sau con đường. Tình yêu của anh chị cũng như bao lứa đôi khác trong thời chiến, thiêng liêng và giữ thật sâu kín trong lòng…
Ở hậu phương, chị phấn đấu trở thành giáo viên và một đảng viên trẻ xuất sắc, tham gia dân quân tự vệ, trực chiến. Đó cũng là quãng thời gian cuốn nhật ký của chị có thêm nhiều trang viết ngập tràn nỗi nhớ: “Anh yêu quý, một tháng rồi không nhận được tin anh. Anh có nghĩ đến em, người con gái hậu phương luôn mong đợi, nhớ thương anh vô hạn?”.
Về già mới được gần nhau
Năm 1968 anh Lê Mã Lương bị thương nặng hỏng một mắt trái. Sau đó anh lại từ chối giấc mơ vào giảng đường Đại học Tổng hợp Hà Nội và du học nước ngoài để tiếp tục lên đường vào Nam đánh giặc. Một mắt anh hỏng, nhưng với chị, “không có gì ái ngại”. Thậm chí chị còn cảm phục vì anh đã cống hiến sức trẻ cho đất nước.
Giữa tháng 7/1974, khi anh đang ở chiến trường Quảng Đà, còn chị vẫn dạy học ở Quảng Trị, xa cách nhau hàng trăm km, nhưng hai người vẫn quyết định xin phép cấp trên ra miền Bắc tổ chức đám cưới. “Sau này, nhiều người hỏi, đám cưới của người anh hùng có gì khác không? (Anh Lê Mã Lương được phong anh hùng quân đội khi vừa 21 tuổi), chị trả lời, chẳng có gì khác cả. Đám cưới của anh chị cũng bình dị, đơn sơ với kẹo, thuốc lá, những bông hoa đồng tiền kép rực rỡ. “Trong đám cưới, tôi mặc áo tân thời, còn anh mặc quân phục – với tôi, đó là bộ trang phục cưới đẹp nhất” – chị Đào kể lại.
Sau đám cưới vài ngày, anh Lương lập tức hành quân vào chiến trường. Đôi vợ chồng trẻ vừa “bén hơi” đã mỗi người một phương. Những lần chị lâm bồn 3 đứa con, anh đều không thể ở bên cạnh. Một mình chị vừa dạy học, vừa nuôi con khôn lớn. “25 năm trong quân đội, số lần anh ấy ở nhà đếm trên đầu ngón tay. Mỗi lần anh về, cả nhà coi như… khách quý. Mãi đến năm 1998, khi anh ấy làm Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quân sự, vợ chồng mới có thời gian thực sự ở bên nhau”.
Trong mắt anh Lương, chị Đào là người phụ nữ “suốt đời đắm đuối vì chồng, con”. Bởi “nếu không có hậu phương vững chắc, luôn động viên và quán xuyến cả gia đình, chắc có lẽ tôi không thể cống hiến trọn vẹn cho Tổ quốc” – anh tâm sự.
Ba người con của anh chị hiện đều đã trưởng thành. Chỉ còn lại hai vợ chồng ở nhà. Chị Đào cười, âu yếm nhìn chồng: “Chỉ khi về già, chúng tôi mới được chăm sóc, gần gũi nhau thêm một chút”.
Quỳnh Mai